Bài 7. Khoảng trắng và định dạng mã nguồn

Hiện mục lục Hiện mục lục

1. Khoảng trắng

C++ không thực hiện kiểm soát chặt chẽ về các khoảng trắng bạn có thể đặt trong mã nguồn. Trong nhiều trường hợp, ngôn ngữ phân định các thành phần cú pháp thông qua việc chúng sử dụng các loại kí tự khác nhau. Trong một số ít trường hợp còn lại thì cần có khoảng trắng để có thể phân định chẳng hạn như giữa hai thành phần cú pháp cấu thành bằng các từ, một ví dụ là giữa inta trong khai báo biến int a{10};. Ngoài việc đó ra thì số lượng khoảng trắng cũng như kiểu các khoảng trắng (dấu cách, dấu tab, dấu xuống dòng) trong đa số trường hợp là không quan trọng.

Để dễ hình dung, ta lấy ví dụ dòng lệnh int tong {a + b};. Ta có thể bỏ gần như mọi khoảng trắng trừ ở vị trí giữa inttong do nếu viết liền thì nó sẽ thành một từ inttong:

int tong{a+b};

Ta có thể sử dụng bao nhiêu khoảng trắng tùy ý:

   int       tong{  a     + b   }  ;

Thậm chí sử dụng cả dấu xuống dòng:

int
tong { a
       + b
     };

Các câu lệnh cũng không cần phân tách với nhau bằng khoảng trắng hoặc có thể phân tách bằng dấu cách. Ta có thể viết int a;std::cin >> a; trên cùng một dòng.

Một số vị trí mà các kí tự khoảng trắng có ảnh hưởng là:

2. Định dạng mã nguồn

Trong khi thực hiện lập trình các chương trình máy tính, chúng ta bỏ nhiều thời gian đọc mã nguồn hơn là viết. Vì thế để công việc có thể thực hiện hiệu quả, mã nguồn cần phải được trình bày sao cho dễ đọc. Hai tiêu chuẩn tổng quát về tính dễ đọc là khả năng nhìn ra các thành phần khác nhau của mã nguồn, và mức độ thống nhất của định dạng trong toàn bộ mã nguồn của dự án.

Một số quy luật định dạng cơ bản thường được áp dụng là:

Có một số bộ quy chuẩn về định dạng mã nguồn được một số tổ chức công bố mà bạn có thể tìm hiểu và tham khảo. Nhưng bạn có thể tùy ý lựa chọn kiểu định dạng mã nguồn cho các chương trình của mình, miễn sao nó thỏa mãn được tính dễ đọc. Các phần mềm viết mã cho C++ thường sẽ có tính năng tự động định dạng mã nguồn.

Mục lục Đóng mục lục